Việt Nam đang phải chống chọi với tình trạng ô nhiễm không khí đáng báo động. Hai thành phố lớn nhất là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh hiện nằm trong số 15 thành phố ô nhiễm hàng đầu ở Đông Nam Á .
Chất hạt mịn (PM2.5) là chất gây ô nhiễm không khí đáng quan tâm nhất ở Việt Nam. Trong năm 2019, Hà Nội chỉ có 8 ngày với PM2.5 giảm hơn so với tiêu chuẩn quốc gia là 50 microgram mỗi mét khối (mg / m 3). Các chất lượng không khí tại thành phố Hồ Chí Minh không phải là tốt hơn nhiều, với chỉ 36 ngày dưới tiêu chuẩn. Trong những ngày còn lại của năm, hơn mười triệu người ở các thành phố này đã phải tiếp xúc với không khí bị ô nhiễm nặng.
Tình trạng ô nhiễm không khí tại Hà Nội và Hồ Chí Minh ngày càng diễn ra nghiêm trọng
Các hạt bụi mịn đặc biệt có hại cho sức khỏe con người vì chúng có thể xâm nhập sâu vào phổi và hệ tim mạch, gây ra các bệnh bao gồm đột quỵ, bệnh tim, ung thư phổi, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính và nhiễm trùng đường hô hấp. Có tới 60.000 ca tử vong ở Việt Nam trong năm 2016 liên quan đến ô nhiễm không khí . Trung bình, chất lượng không khí thấp hơn tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới sẽ làm giảm tuổi thọ một năm và khiến quốc gia này mất khoảng 5% GDP mỗi năm .
Trong số các nguyên nhân chính của tình trạng ô nhiễm này là do giao thông vận tải. Việt Nam hiện có 3,6 triệu ô tô và 58 triệu xe máy, phần lớn tập trung ở các thành phố lớn. Trong số đó có nhiều phương tiện cũ, với công nghệ kiểm soát khí thải còn hạn chế. Chúng gây ra tắc đường hàng ngày và thải ra một lượng lớn chất ô nhiễm không khí. Có rất nhiều xe buýt và xe máy cũ với khói thải đen kịt cả nước.
Vấn đề giao thông của Việt Nam đang trở nên trầm trọng hơn do quy hoạch đô thị kém. Các tòa nhà cao tầng mọc lên như nấm ở các trung tâm thành phố, mỗi trung tâm có hàng nghìn dân, tạo áp lực rất lớn lên hạ tầng đường sá vốn đã quá tải. Không có hệ thống giao thông công cộng nào tồn tại ngoại trừ đội xe buýt chưa thuận tiện. Không gian xanh và thoáng được coi là xa xỉ tại các thành phố lớn của Việt Nam.
Giao thông là một trong những vấn đề gây ô nhiễm không khí hàng đầu
Một vấn đề khác là bụi từ các công trường xây dựng thương mại và dân cư . Hàng nghìn công trường đầy ắp xe tải chở đầy cát và xi măng tạo ra những cơn bão bụi triền miên. Các khu công nghiệp cũ bên trong các thành phố và các cơ sở gây ô nhiễm không khí như các nhà máy điện than, các nhà sản xuất xi măng và thép làm tình trạng ô nhiễm không khí trở nên trầm trọng hơn. Bếp nấu sinh khối rắn được hàng trăm nghìn người dân thành phố sử dụng cũng như việc đốt ruộng sau thu hoạch ở các vùng ven đô Hà Nội góp phần đáng kể vào ô nhiễm không khí, đặc biệt là vào mùa khô từ tháng 10 đến tháng 2.
Các cơ quan quản lý môi trường đã xác định các giải pháp ngắn hạn . Chúng bao gồm các quy định chặt chẽ hơn về tiêu chuẩn khí thải phương tiện mới, kiểm soát giao thông tốt hơn, thực thi các biện pháp quản lý bụi đối với các công trường xây dựng và xe tải vận chuyển, tăng cường giám sát khí thải công nghiệp và cấm sử dụng bếp than ở các thành phố. Mặc dù các biện pháp này có thể giúp giải quyết một phần ô nhiễm của Việt Nam, nhưng các chính sách quốc gia dài hạn là cần thiết.
Đầu tiên, cải thiện và củng cố quy hoạch đô thị sẽ giảm thiểu đáng kể ô nhiễm không khí. Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh có rất nhiều tòa nhà cao tầng có diện tích sử dụng cao và hiện nay cần nhiều không gian xanh và thoáng hơn. Các cơ sở đông dân cư như văn phòng chính phủ, trường đại học và bệnh viện có thể được di dời ra ngoài thành phố. Di dời các khu công nghiệp cũ như Nhà máy Bóng đèn Rạng Đông sẽ làm giảm các chất ô nhiễm không khí nguy hiểm. Việc hoàn thiện các hệ thống giao thông công cộng cũng rất cần thiết, kéo theo đó là sự phát triển của các hệ thống mới. Các quy tắc xây dựng xanh và biểu thuế nhập khẩu có thể thúc đẩy sự phát triển của các tòa nhà sử dụng năng lượng mặt trời và tiết kiệm năng lượng.
Thứ hai, các chính sách thúc đẩy việc sử dụng các phương tiện xanh hơn có thể làm giảm ô nhiễm không khí. Có thể khuyến khích loại bỏ các phương tiện quá cũ và gây ô nhiễm bằng cách cung cấp các khoản trợ cấp cho việc kinh doanh ô tô cũ, được trả bằng mức thuế cao hơn đối với xe mới. Điều này sẽ giúp giải quyết những lo ngại về hiệu ứng phân phối, vì chủ sở hữu các phương tiện cũ có xu hướng thuộc các hộ gia đình có thu nhập thấp hơn. Chính phủ cũng có thể ban hành các chính sách hỗ trợ thúc đẩy xe điện (EV), chẳng hạn như chỉ cho phép sử dụng xe điện ở các khu vực trung tâm thành phố và giảm thuế thu nhập cho các nhà sản xuất xe điện để chúng có giá cả phải chăng hơn.
Thứ ba, định giá chất gây ô nhiễm sẽ phù hợp với nguyên tắc trả tiền cho người gây ô nhiễm. Quy định về thuế bảo vệ môi trường có thể được sửa đổi để nhắm mục tiêu tốt hơn vào các nhiên liệu gây ô nhiễm như dầu diesel và than. Định giá carbon sẽ làm giảm tiêu thụ và sản xuất các sản phẩm từ carbon và thúc đẩy nền kinh tế carbon thấp. Điều này sẽ làm giảm ô nhiễm không khí và giảm thiểu biến đổi khí hậu, một mối đe dọa khác đối với kinh tế và an ninh xã hội của Việt Nam.
Thứ tư, chuyển đổi suôn sẻ và hiệu quả sang hệ thống điện tái tạo sẽ giúp giảm thiểu ô nhiễm không khí và biến đổi khí hậu. Việc tạo điều kiện cho các chính sách như thuế nhập khẩu và đấu giá ngược đối với điện mặt trời và điện gió sẽ duy trì đà bùng nổ điện mặt trời gần đây, đưa Việt Nam trở thành quốc gia đứng đầu Đông Nam Á về lắp đặt điện mặt trời . Việt Nam có thể đặt ra các mục tiêu đầy tham vọng hơn đối với năng lượng tái tạo , với tiềm năng cao về năng lượng mặt trời, gió và thủy điện bơm ngoài sông.
Khí thải công nghiệp là nguyên nhân khác gây ô nhiễm không khí
Cuối cùng, cải cách trợ cấp nhiên liệu hóa thạch có thể giảm việc sử dụng nhiên liệu bẩn và giải phóng khoản trợ cấp hóa thạch hàng năm trị giá 612 triệu USD hoặc 0,3% GDP của Việt Nam cho các hoạt động phúc lợi khác như y tế, giáo dục và bảo vệ môi trường.
Đây là thời điểm hoàn hảo để ưu tiên các biện pháp tiềm năng này bằng cách sửa đổi Luật Bảo vệ Môi trường, dự kiến sẽ được Quốc hội thông qua vào cuối năm 2020. Việt Nam có khả năng xoay chuyển vấn đề ô nhiễm thông qua các quy định cẩn thận.
Tiến sĩ Thang Nam Do là Thành viên Nghiên cứu về Năng lượng Không Carbon cho Chương trình Thử thách lớn Châu Á – Thái Bình Dương của Viện Thay đổi Năng lượng ANU và Trường Chính sách Công Crawford, Đại học Quốc gia Australia. Bài viết được xuất bản trên trang eastasiaforum.org